Tìm kiếm Blog này

24 tháng 12 2022

HKPT_Bài 11: 24 SƠN (HƯỚNG) & TAM NGUYÊN LONG

 

BÀI 11

24 SƠN (HƯỚNG) & TAM NGUYÊN LONG

 

1/ 24 SƠN (HƯỚNG) TRÊN LA BÀN:

Hậu thiên Bát quái của Văn Vương chia phương hướng ra làm 8 phần đều nhau, với mỗi hướng đi liền với 1 con số của Cửu tinh là: BẮC (số 1), ĐÔNG BẮC (số 8), ĐÔNG (số 3), ĐÔNG NAM (số 4), NAM (số 9), TÂY NAM (số 2), TÂY (số 7), TÂY BẮC (số 6). Riêng số 5 vì nằm ở chính giữa (trung cung) nên không có phương hướng. Đem áp đặt Hậu thiên Bát quái lên la bàn gồm 360 độ, thì mỗi hướng (hay mỗi số) sẽ chiếm 45 độ. (Hình 11)

 

Vào thời kỳ phôi phai của học thuật Phong thủy (nhà Chu), việc phân chia la bàn thành 8 hướng như vậy đã được kể là quá tinh vi và chính xác. Nhưng sau này, khi Phong thủy đã có những bước tiến vượt bậc dưới thời Đường – Tống, khoảng cách 45 độ được xem là quá lớn và sai lệch quá nhiều. Để cho chính xác hơn, người ta lại phân chia mỗi hướng ra thành 3 hướng nhỏ đều nhau, nên mỗi hướng nhỏ chiếm 15 độ. Như vậy, trên la bàn lúc này đã xuất hiện 24 Hướng (hay Sơn). Người ta lại dùng 12 Địa Chi, 8 Thiên Can (đúng ra là 10, nhưng 2 Can Mậu – Kỷ được quy về trung cung cho Ngũ Hoàng nên chỉ còn 8 Can cho phương hướng) và 4 quẻ Càn – Khôn – Cấn – Tốn mà đặt tên cho 24 hướng như sau:

      - Hướng BẮC (số 1):  chia thành 3 hướng NHÂM – TÝ – QÚY

      - Hướng ĐÔNG BẮC (số 8): chia thành 3 hướng SỬU – CẤN – DẦN

      - Hướng ĐÔNG (số 3): chia thành 3 hướng GIÁP – MÃO – ẤT

      - Hướng ĐÔNG NAM (số 4): chia thành 3 hướng THÌN – TỐN – TỴ

      - Hướng NAM (số 9): chia thành 3 hướng BÍNH – NGỌ – ĐINH

      - Hướng TÂY NAM (số 2): chia thành 3 hướng MÙI – KHÔN – THÂN

      - Hướng TÂY (số 7): chia thành 3 hướng CANH – DẬU – TÂN

      - Hướng TÂY BẮC (số 6): chia thành 3 hướng TUẤT – CÀN – HỢI


Tất cả những hướng trên đều được đi theo thứ tự từ trái sang phải theo chiều kim đồng hồ. Chẳng hạn như khi nói hướng BẮC (tức số 1) chia thành 3 hướng là NHÂM – TÝ – QUÝ, tức là hướng NHÂM chiếm 15 độ phía bên trái, hướng TÝ chiếm 15 độ nơi chính giữa, còn hướng QUÝ thì chiếm 15 độ phía bên phải. Tất cả mọi hướng khác cũng đều theo thứ tự như thế. 

Hình 10: tọa độ của 24 hướng trên la bàn



Để việc xác định mỗi hướng được dễ dàng, dưới đây là tọa độ chính giữa của 24 hướng. Từ tọa độ đó, người ta có thể tìm ra vị trí của mỗi hướng là từ đâu tới đâu trên la bàn, bằng cách đi ngược sang bên trái, cũng như sang bên phải của tọa độ trung tâm, mỗi bên là 7 độ 5 (vì một hướng chỉ có 15 độ).

- Thí dụ: hướng MÙI có tọa độ trung tâm là 210 độ. Nếu đi ngược sang bên trái 7 độ 5 (tức trừ đi 7 độ 5) thì được 202 độ 5. Nếu đi thuận qua phải 7 độ 5 (tức cộng thêm 7 độ 5) thì được 217 độ 5. Như vậy, hướng MÙI sẽ bắt đầu từ 202 độ 5 và chấm dứt tại 217 độ 5 trên la bàn (xem hình 12).

- Chính hướng và kiêm hướng: một vấn đề làm cho người mới học Phong thủy khá bối rối là vấn đề Chính Hướng và Kiêm Hướng. Thật ra, điều này cũng không có gì là khó, vì khi đo hướng nhà (hay mộ), nếu thấy nằm tại tọa độ trung tâm của 1 hướng (bất kể là hướng nào) thì đều được coi là Chính Hướng. Còn nếu không đúng với tọa độ tâm điểm của 1 hướng thì được coi là Kiêm Hướng. Kiêm hướng lại chia ra là kiêm bên phải hoặc kiêm bên trái, và kiêm nhiều hay kiêm ít. Nếu kiêm bên phải hoặc bên trái thì hướng nhà không được xem là thuần khí nữa, vì đã lấn sang hướng bên cạnh (điều này sẽ được nói rõ hơn trong phần Tam nguyên long). Nói kiêm phải hay kiêm trái là lấy tọa độ chính giữa của mỗi hướng làm trung tâm mà tính.

- Thí dụ: hướng MÙI có tọa độ chính giữa là 210 độ, nếu 1 căn nhà có hướng 215 độ thì nhà đó thuộc hướng MÙI, nhưng kiêm bên phải 5 độ (vì nó lệch sang bên phải của tọa độ trung tâm 5 độ). Nhưng trong thuật ngữ Phong thủy, người ta không nói kiêm phải hoặc trái, mà lại dùng tên của những hướng được kiêm để gọi nhập chung với hướng của ngôi nhà đó. Như trường hợp này là nhà hướng MÙI kiêm phải 5 độ, nhưng vì hướng bên phải của hướng MÙI là hướng KHÔN, nên sẽ nói nhà này “hướng MÙI kiêm KHÔN 5 độ”.

Với vấn đề kiêm nhiều hay ít thì nếu hướng nhà chỉ lệch sang bên phải hoặc bên trái khoảng 3 độ so với tọa độ chính giữa của 1 hướng thì được coi là kiêm ít, và vẫn còn giữa được thuần khí của hướng. Nếu lệch quá 3 độ so với trung tâm của 1 hướng sẽ được coi là lệch nhiều, nên khí lúc đó không thuần, mà bị nhận nhiều tạp khí. Những trường hợp này cần được dùng Thế quái (hay số thế, sẽ nói trong 1 phần khác) để hy vọng đem được vượng khí tới hướng hầu biến hung thành cát.


2/ TAM NGUYÊN LONG:

Sau khi đã biết được 24 sơn (hay hướng) thì còn phải biết chúng thuộc về Nguyên nào, và là dương hay âm, để có thể xoay chuyển phi tinh Thuận hay Nghịch khi lập trạch vận. Nguyên này không phải là “Nguyên” chỉ thời gian như đã nói trong “Tam Nguyên Cửu Vận”, mà là chỉ địa khí của long mạch, hay phương hướng của trái đất mà thôi. Tam nguyên long được chia ra làm Thiên nguyên, Địa nguyên và Nhân nguyên, với mỗi Nguyên bao gồm 8 sơn (hay 8 hướng). Trong 8 sơn đó lại có 4 sơn dương và 4 sơn âm như sau:

- THIÊN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:

      * 4 sơn dương: CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN.

      * 4 sơn âm: TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU.

- ĐỊA NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:

      * 4 sơn dương: GIÁP, CANH, NHÂM, BÍNH.

      * 4 sơn âm: THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI.

- NHÂN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:

      * 4 sơn dương: DẦN, THÂN, TỴ, HỢI.

      * 4 sơn âm: ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ.

 

Với sự phân định âm hay dương của mỗi hướng như trên, người ta có thể biết được lúc nào phi tinh sẽ đi thuận hoặc đi nghịch khi xoay chuyển chúng theo vòng LƯỢNG THIÊN XÍCH. (điều này sẽ được nói rõ trong phần “Lập tinh bàn cho trạch vận” ở 1 mục khác).

Ngoài ra, nếu nhìn kỹ vào sự phân chia của Tam nguyên Long, ta thấy trong mỗi hướng của Bát quái (BẮC, NAM, ĐÔNG, TÂY...) tuy được chia ra thành 3 hướng nhỏ, nhưng đều bao gồm đủ Thiên, Địa và Nhân nguyên long ở trong đó.

- Thí dụ: hướng BẮC được chia thành 3 hướng nhỏ là NHÂM – TÝ – QUÝ, với NHÂM thuộc Địa nguyên long, TÝ thuộc Thiên nguyên long, và QUÝ thuộc Nhân nguyên long. Tất cả các hướng còn lại cũng đều như thế, nghĩa là Thiên nguyên long ở chính giữa, Địa nguyên long nằm bên phía tay trái, còn Nhân nguyên long nằm bên phía tay phải. Từ đó người ta mới phân biệt ra Thiên nguyên long là quẻ Phụ mẫu, Địa nguyên long là Nghịch tử (vì nằm bên trái của Thiên nguyên long tức là nghịch chiều xoay chuyển của vạn vật), còn Nhân nguyên long là Thuận tử (vì nằm bên tay phải, tức là thuận chiều). Trong 3 quẻ Thiên – Địa – Nhân long thì Thiên nguyên và Nhân nguyên là có thể kiêm được với nhau (vì là giữa Phụ mẫu và Thuận tử, và cùng âm – dương với nhau). Điều này có nghĩa là khi hướng nhà thuộc Thiên nguyên thì không bắt buộc phải nằm ở chính giữa hướng đó mới được thuần khí, mà có thể kiêm sang phía Nhân nguyên mà khí vẫn không bị pha tạp. Tương tự như thế, nhà hướng thuộc Nhân nguyên cũng có thể kiêm sang bên Thiên nguyên. Còn Địa nguyên long chỉ có thể đứng 1 mình, chứ không thể kiêm sang bên phải (Phụ mẫu), hay bên trái (Thuận tử). Nếu kiêm Phụ mẫu là âm – dương sai lạc (tức khác biệt về âm – dương, còn gọi là “sai thố”). Nếu kiêm thuận tử thì sẽ bị Xuất quái (tức ra khỏi hướng).

- Thí dụ 1: nhà hướng 205 độ. Vì ở trong khoảng 202 độ 5 – 217 độ 5 nên nhà này thuộc hướng MÙI, nhưng lệch sang phía bên trái 5 độ, tức kiêm hướng ĐINH 5 độ. Nhưng MÙI thuộc Địa nguyên long (tức Nghịch tử), chỉ có thể lấy chính hướng (210 độ) chứ không thể kiêm, cho nên trường hợp này là phạm Xuất quái (tức gần như ra khỏi phạm vi của hướng TÂY NAM mà vào hướng NAM), nên chủ tai họa, bần tiện (sẽ nói thêm trong những phần sau). Nếu nhất thời đắc vượng khí đến hướng (sẽ nói trong mục “VƯỢNG SƠN, VƯỢNG HƯỚNG”) thì tạm yên ổn 1 thời gian, nhưng khi vượng khí đã hết hiệu lực thì tai họa sẽ liên tiếp xảy ra.

- Thí dụ 2: Ngược lại, 1 căn nhà có hướng 185 độ, tức hướng NGỌ kiêm ĐINH 5 độ. Vì NGỌ là quẻ Phụ mẫu, kiêm sang bên phải là kiêm Thuận tử, nên nhà như thế vẫn tốt chứ không xấu.

Đây là 1 trong những yếu tố căn bản và quan trọng của Huyền không Học, cần phải biết và phân biệt rõ ràng. Có như vậy mới biết được tuy 2 nhà cùng 1 trạch vận, nhưng 1 nhà thì làm ăn khá, mọi người sang trọng, có khí phách, còn nhà kia chỉ bình thường, hoặc con người nhỏ mọn, xảo trá... Cho nên sự quý, tiện của 1 căn nhà phần lớn là do có biết chọn đúng hướng hoặc biết kiêm hướng hay không mà ra. Điều này sẽ được nói rõ hơn trong phần “Phương pháp chọn hướng nhà” ở những bài sau..


Trích nguồn: Sách "Phong thủy huyền không học"– T/g: Bình Nguyên Quân– Tái bản năm 2018.

Trân trọng!

P/s: Nếu bạn có nhu cầu bố cục phong thủy, thì hãy liên lạc tôi qua số điện thoại/zalo bên dưới.

--------------------------------------------------------------------
P/s: Các bạn khi chia sẽ, nhớ ghi nguồn nhé!
Ths. Kts. Bùi Quốc Hưng – 090.33.99.208
Facebook: Ngôi Nhà An Vui
Quản lý trang:
Thư viện XD360 - Tài liệu và Bản vẽ Xây dựng
CHIA SẺ KIẾN THỨC PHONG THUỶ
Phong Thủy-Dịch học Tp.HCM
--------------------------------------------------------------------

1 nhận xét:

  1. Nặc danh24/12/22 12:57

    Bài này anh viết kỹ hơn trong sách, phân tích rõ hơn về Tam Nguyên Long. Rất hay!

    Trả lờiXóa

Bài viết nổi bật:

Tam Bảo: Tinh – Khí – Thần