BÀI 17
LINH THẦN & CHÍNH THẦN
1)
CHÍNH THẦN:
Trong “Thiên ngọc kinh”, Dương Quân Tùng đã
viết về Linh – Chính thần như sau:
“ÂM DƯƠNG NHỊ TỰ KHÁN LINH CHÍNH, TỌA HƯỚNG
TU TRI BỆNH. NHƯỢC NGỘ CHÍNH THẦN CHÍNH VỊ TRANG, BÁT THỦY NHẬP LINH ĐƯỜNG. LINH
ĐƯỜNG CHÍNH HƯỚNG TU TIÊU HẢO, NHẬN THỦ LAI SƠN NÃO. THỦY THƯỢNG BÀI LONG ĐIỂM
VỊ TRANG, TÍCH TÚC VẠN DƯ SƯƠNG.”
Tạm
dịch:
“ Dùng 2 chữ Âm – Dương để định Linh –
Chính, sẽ biết cách tu sửa sự sai lầm (bệnh) của tọa – hướng. Nếu như đặt tọa
nơi phương vị của Chính thần, thì Linh đường sẽ thu được thủy từ 8 hướng. Lấy
Linh đường làm chính hướng là cách tốt đẹp, sẽ nhận được Long khí của lai sơn. Trên
thủy định vị trí để bài bố long, sẽ có đủ thóc lúa để nuôi sống vạn mái nhà”.
Nói “dùng 2 chữ ÂM – DƯƠNG để định Linh –
Chính thần”, tức là dùng sự thịnh – suy, đối xứng (hay đối đãi) nhau của các vận,
hầu tìm ra Linh – Chính thần. Như vận 1 thì đó là lúc sao Nhất bạch đương vượng,
khí của nó đang trong giai đoạn cường thịnh nhất (dương), nên đó là Chính thần.
Ngược lại, cũng trong vận 1 thì sao Cửu tử là thoái khí (tức suy vi nên là âm),
lại nằm đối diện với phương vị của sao Nhất Bạch trong Lạc thư (vị trí đối xứng
với Chính thần), nên đó là Linh thần. Cho nên, Chính thần là phương vị của 1
sao (hay 1 số) đương vượng, còn Linh thần là phương vị của 1 số đang trong thời
kỳ suy hoặc tử, và nằm đối diện với phương vị của Chính thần. Vì vậy, muốn biết
phương vị của Chính thần thì trước hết cần phải nhớ địa bàn phân bố của 9 số
trong Lạc thư như sau:
- Số 1: tại phương KHẢM (phía BẮC).
- Số 2: tại phương KHÔN (TÂY NAM).
- Số 3: tại phương CHẤN (ĐÔNG).
- Số 4: tại phương TỐN (ĐÔNG NAM).
- Số 5: tại trung cung (không có phương vị).
- Số 6: tại phương CÀN (TÂY BẮC).
- Số 7: tại phương ĐOÀI (TÂY).
- Số 8: tại phương CẤN (ĐÔNG BẮC).
- Số 9: tại phương LY (NAM).
Hình 87: Lạc thư và phương vị của 9 số
Vì mỗi số vừa quản thủ 1 vận (từ vận 1 tới
vận 9), vừa làm chủ khu vực mà nó đóng, cho nên khi tới vận của số nào thì số
đó được coi là Chính Thần đương vận, và khu vực mà nó đóng (hay cai quản) sẽ là
khu vực của Chính Thần trong vận đó.
Thí dụ: vào vận 1 Thượng nguyên thì số 1 sẽ là Chính Thần đương vận (tức vượng
khí), còn khu vực phía BẮC (tức phương KHẢM, nơi nó đóng và cai quản) sẽ là khu
vực của Chính Thần trong vận 1.
Tương Tự như thế, khi bước sang vận 2 thì số
2 sẽ là Chính Thần đương vận, và phía TÂY NAM (phương KHÔN) sẽ là khu vực của
Chính Thần trong vận 2...
Riêng đối với số 5 vì nằm tại trung cung,
không có phương vị nhất định, nên khi tới vận 5 thì 10 năm đầu lấy phía TÂY NAM
làm khu vực của Chính Thần, còn 10 năm cuối lấy phía ĐÔNG BẮC làm khu vực của
Chính Thần.
Vì Chính Thần là khu vực có vượng khí của
sơn mạch, nên nơi này cần có núi cao, hoặc dải đất từ nơi đó tiến tới. Nếu được
như thế thì nhà cửa, hoặc làng mạc, hay thành phố... sẽ được bình yên, hay vượng
phát trong vận đó. Ngược lại, nếu khu vực của Chính Thần mà có ngã ba sông (nơi
2 con sông nhập lại), hay có ao, hồ, sông, biển lớn... thì nhà cửa hay làng mạc,
thành phố đó sẽ phát sinh nhiều hung họa trong thời gian đó. Cho nên, khu vực của
Chính thần không được có thủy, nếu có sẽ chủ tai họa. Vì vậy, thủy nằm trong
khu vực của Chính thần được gọi là “LINH THỦY” (thủy thất vận chủ tai họa).
- Thí dụ: vào vận 8 Hạ nguyên, khu vực của Chính thần sẽ là phía ĐÔNG BẮC (vì
đó là phương vị của số 8. Cho nên, nếu phía ĐÔNG BẮC của căn nhà, ngôi
làng, hay 1 thành phố... mà có núi, hay có dải đất dài từ phía đó tiến tới thì
căn nhà, ngôi làng, hay thành phố đó sẽ được sung túc, làm ăn thịnh vượng, yên ổn
trong vận 8. Ngược lại, nếu khu vực đó lại có cửa biển, hoặc nơi tụ hội của 2
dòng sông, hay có sông lớn chảy qua... thì sẽ gặp nhiều hung họa.
Hình
88: nhà có sông giao hội tại khu vực phía ĐÔNG BẮC, trong vận 8 là khu
vực của CHÍNH THẦN, nên chủ suy bại, hoặc nhiều tai họa.
2)
LINH THẦN:
Là phía đối diện với khu vực của Chính Thần.
Lấy thí dụ như trong vận 1 thì khu vực của Chính Thần ở phía BẮC, cho nên khu vực
của Linh thần sẽ ở phía NAM. Trong vận 2 thì Chính thần ở phía TÂY NAM, nên
Linh thần nằm ở phía ĐÔNG BẮC. Trong vận 3 thì Chính thần nơi phía ĐÔNG, nên
Linh thần sẽ ở phía TÂY. Các vận khác đều như thế mà suy ra. Do đó, dựa vào vị
trí những khu vực của Chính thần, ta sẽ có những khu vực của Linh Thần theo từng
vận như sau:
Hình
89: bảng phương vị của CHÍNH THẦN và LINH THẦN trong 9 vận
Riêng với Vận 5, vì trong 10 năm đầu dùng
phía TÂY NAM làm Chính Thần, nên lấy khu vực ĐÔNG BẮC làm Linh Thần. Còn trong
10 năm cuối dùng phía ĐÔNG BẮC làm Chính Thần, nên lấy TÂY NAM làm khu vực của
Linh Thần.
Một vấn đề trọng yếu trong việc xác định
phương vị của Linh Thần là khu vực này cần có thủy của sông, hồ, cửa biển..., nếu
được như thế thì nhà cửa, làng mạc, đô thị... sẽ trở nên phồn thịnh, sầm uất
trong vận đó. Cho nên, thủy nằm tại khu vực của Linh Thần lại được gọi là
“CHÍNH THỦY” (tức thủy tốt hay vượng thủy). Ngược lại, nếu khu vực này có long
hành tiến tới, hay dải đất chạy từ phía đó tới sẽ chủ suy bại, hoặc có nhiều
tai biến.
- Thí dụ: trong vận 8, phương vị của Linh
thần sẽ nằm ở phía TÂY NAM. Vì vậy, nếu khu vực đó của nhà ở hay làng mạc, đô
thị... mà có ao, hồ, sông, hoặc cửa biển... thì rất tốt, chủ vượng phát về mọi
mặt, nhất là về kinh tế, tài lộc. Ngược lại, nếu nơi đó có thế núi, hay thế đất
tiến tới thì căn nhà, ngôi làng, hay đô thị đó sẽ gặp nhiều tai biến, hung họa,
tài lộc và kinh tế suy sụp.
Hình
90: nhà có sông giao hội tại khu vực phía TÂY NAM, trong vận 8 là khu vực
của LINH THẦN, nên chủ đại vượng về tài lộc
Hình
91: nhà có ngã 4 tại phía TÂY NAM, trong vận 8 cũng là 1 hình thức đắc
“Thủy” của LINH THẦN, nên cũng khá tốt về tài lộc
3)
NHỮNG TRƯỜNG HỢP NGOẠI LỆ
Vấn đề khảo sát những khu vực của Chính Thần,
Linh Thần, cũng như những yếu tố chúng cần có hay không thể có... chủ yếu là
dùng để luận đoán vận khí hưng, suy của 1 khu vực, 1 thành phố hay 1 quốc
gia... Còn riêng với vận khí của nhà ở thì trước tiên vẫn phải xem xét khu vực
của các khí sinh, vượng hay suy, tử là nằm tại phương nào? Sau đó mới phối hợp
với các phương vị của Chính Thần, Linh Thần mà tìm ra khu vực nào nên có thủy,
khu vực nào nên có núi..., chứ không nhất thiết là khu vực của Chính Thần phải
có núi, còn khu vực của Linh Thần phải có thủy.
- Thí dụ 1: Nhà hướng 30 độ (tức hướng SỬU,
thuộc phía ĐÔNG BẮC), nhập trạch trong vận 8. Trạch vận của căn nhà như hình dưới.
Hình
92: Trạch vận nhà hướng SỬU, 30 độ, vận 8
Nhìn vào tinh bàn trạch vận thấy hướng tinh
số 8 tới phía ĐÔNG BẮC, còn hướng tinh số 5 tới phía TÂY NAM. Nếu theo những
nguyên lý về Chính Thần và Linh Thần ở trên, phía ĐÔNG BẮC cần có núi, còn phía
TÂY NAM cần có thủy. Nhưng vì vượng khí (của Hướng tinh) số 8 đang chiếu tới
phía ĐÔNG BẮC, nên khu vực này của căn nhà lại cần có thủy, chứ không được có
núi. Nếu có núi ắt tài lộc của gia đình sẽ suy bại, còn nếu có thủy thì vấn đề
làm ăn, sinh sống mới được tốt đẹp.
Ngược lại, phía TÂY NAM tuy là khu vực của
Linh Thần, nên theo nguyên lý cần có Thủy. Nhưng vì nơi này có tử khí (của Hướng
tinh) Ngũ Hoàng chiếu tới, vì vậy không được có thủy. Nếu có thủy tất chủ đại
hao tán tiền bạc, kèm thêm bệnh tật hoặc tai họa nghiêm trọng cho người trong
nhà. Còn nếu phía đó có núi thì mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp.
Thí dụ 2: nhà hướng 360 độ (hay 0 độ, tức hướng TÝ thuộc chính BẮC), nhập trạch
trong Vận 8. Tinh bàn của trạch vận như hình dưới.
Hình
93: Trạch vận nhà hướng TÝ, 0 độ, vận 8
Nhìn vào trạch vận thấy Hướng tinh số 7 tới
phía ĐÔNG BẮC, còn hướng tinh số 1 tới phía TÂY NAM. Vì số 7 là suy khí của Vận
8, nên không thể có thủy tại nơi đó. Khu vực này cũng là khu vực của Chính Thần,
cần có núi thì tốt, có thủy vừa chủ phá tài, vừa hại nhân đinh. Cho nên phía
ĐÔNG BẮC của nhà này cần có núi, nếu có thủy sẽ làm suy bại cả nhân đinh lẫn
tài lộc. Ngược lại, Hướng tinh 1 là sinh khí của vận 8 tới phía TÂY NAM, nên
nơi này cần có thủy. Đây cũng là khu vực của Linh Thần, nếu gặp thủy sẽ chủ
phát về tài lộc. Vì vậy, phía TÂY NAM của căn nhà nếu có thủy là tốt, nếu có
núi là xấu, sẽ đem đến nhiều tai họa cho nhân đinh và tiền bạc. Cho nên, đối với
nhà cửa thì điều quan trọng vẫn là phương vị của các phi tinh trong trạch vận,
rồi sau đó mới phối hợp với nguyên lý của Chính Thần, Linh Thần mà tìm ra những
nơi cần có núi, những nơi cần có thủy. Như thế mới bảo đảm cho mọi sự được hoàn
mỹ, tốt đẹp. Do đó, không thể áp dụng những nguyên lý về Chính Thần hay Linh Thần
1 cách máy móc, vì như thế sẽ có thể phạm phải những sai lầm đáng tiếc mà chuốc
lấy nhiều tai họa.
4)
CÁCH XỬ DỤNG LINH THẦN SAI LẦM - SỰ PHỐI HỢP GIỮA HUYỀN
KHÔNG PHI TINH VỚI HUYỀN KHÔNG ĐẠI QUÁI:
Gần đây, có 1 số lý thuyết cho rằng việc xử
dụng Linh thần không phải là dùng khu vực đối diện với khu vực của Chính thần,
mà là dùng Hướng tinh của trạch vận, có số trùng với số địa bàn của khu vực đối
diện với Chính thần làm Linh Thần.
- Thí dụ: nhà tọa CẤN hướng KHÔN, vào ở
trong vận 4, có trạch vận như hình dưới. Vì là trong vận 4, phía ĐÔNG NAM là
Chính thần, nên phía TÂY BẮC là Linh thần. Mà TÂY BẮC là địa bàn của số 6, nên
lấy Hướng tinh số 6 chính là Linh thần. Kế đó, nhìn vào trạch vận thấy Hướng
tinh số 6 nằm ở khu vực phía NAM căn nhà, nên nếu nơi đó có đường đi, ngã ba,
ngã 4, hay cửa ra vào, ao hồ… là cách Linh thần đắc thủy, nhà sẽ vượng phátvề
tài lộc.
Hình
94: Trạch vận nhà tọa CẤN hướng KHÔN, vận 4
Tuy nhiên, không phải bất cứ nhà nào cũng
có thể dùng được Phi tinh là Linh thần, mà nó đòi hỏi 1 số điều kiện như sau:
a) Tại
hướng nhà: Sơn tinh phải sinh nhập cho Hướng tinh. Như trường hợp ở thí dụ
trên, hướng nhà là KHÔN (tức TÂY NAM), nơi đó có Sơn tinh 1 thuộc hành Thủy
sinh cho Hướng tinh 4 thuộc hành Mộc.
b) Tại
khu vực có Phi tinh là Linh thần: Hướng tinh phải khắc chế (hay khắc nhập) được
Sơn tinh. Như thí dụ trên, Linh thần là Hướng tinh số 6 (hành Kim), khắc được
Sơn tinh số 3 (hành Mộc). Ngoài ra, vì dùng Linh thần tức là dụng Thủy pháp,
nên chỉ có Hướng tinh mới là Linh thần, còn Vận tinh và Sơn tinh thì không kể.
Lý do họ đưa ra phương pháp xử dụng Linh thần như trên là dựa theo câu văn mà
Tưởng đại Hồng viết khi “bình giải” 4 câu thơ trong Thiên Ngọc kinh của Dương
Quân Tùng về Linh – Chính thần, đã được nói tới trong phần đầu của đề mục này
như sau:
“ÂM DƯƠNG NHỊ TỰ KHÁN LINH CHÍNH, TỌA HƯỚNG
TU TRI BỆNH. NHƯỢC NGỘ CHÍNH THẦN CHÍNH
VỊ TRANG, BÁT THỦY NHẬP LINH ĐƯỜNG. LINH ĐƯỜNG CHÍNH HƯỚNG TU TIÊU HẢO, NHẬN THỦ
LAI SƠN NÃO. THỦY THƯỢNG BÀI LONG ĐIỂM VỊ TRANG, TÍCH TÚC VẠN DƯ SƯƠNG.”
Theo đó, Tưởng đại Hồng đã diễn giải như
sau:
“Thanh Nang, Thiên Ngọc gồm lấy vị trí Sinh – Vượng trong
quẻ làm Chính thần, lấy vị trí Suy – Bại, xuất quẻ làm Linh thần, nên Âm –
Dương giao cấu mà thành 2 chữ Linh – Chính. Linh – Chính không rõ ràng, Sinh –
Vượng tất có bệnh vậy (linh chính bất minh, sinh vượng tất hữu bệnh hĩ). Nếu biết
như vậy, mà lấy Chính thần đặt trên hướng là Sinh nhập (Nhược tri kì cố, nhi dĩ
chính thần trang tại hướng thượng vi sinh nhập), lấy Linh thần đặt trên thủy là
Khắc nhập (nhi dĩ linh thần trang tại thủy thượng vi khắc nhập), tức Linh Đường
Chính Hướng thì mới kiêm thu được cái kỳ diệu ấy” (tắc linh đường chính hướng
khởi bất kiêm thâu kì diệu hồ)”.
Dựa vào đoạn văn đó, đặc biệt là 2 câu: “lấy
Chính thần đặt trên hướng là Sinh nhập, lấy Linh thần đặt trên thủy là Khắc nhập”,
họ mới “khám phá” và xử dụng phương pháp trên. Với câu thứ nhất, họ cho rằng “lấy
Chính thần đặt trên hướng là Sinh nhập”, tức Hướng tinh tới phía trước nhà (hay
mộ) phải được Sơn tinh nằm bên cạnh sinh cho (tức được Sinh nhập). Với câu “lấy
Linh thần đặt trên Thủy là khắc nhập”, họ cho rằng nơi có Hướng tinh là Linh thần
cần phải khắc được Sơn tinh nằm bên cạnh. Cho nên mới nảy sinh ra phương pháp
dùng Linh thần này, cũng như 2 điều kiện đã nói ở trên. Tuy nhiên, nếu xét kỹ ý
nghĩa của 4 câu trong Thiên ngọc kinh, ta thấy Tưởng đại Hồng đã cố tình làm
thay đổi, hoặc đảo lộn ý nghĩa nguyên thủy của nó. Nhất là câu: “NHƯỢC NGỘ
CHÍNH THẦN CHÍNH VỊ TRANG, BÁT THỦY NHẬP LINH ĐƯỜNG”.
Ở đây, “Chính
thần chính vị trang” có nghĩa là “bài bố
chính vị theo Chính thần”, tức là phương tọa phải đặt tại phương
vị của Chính thần. Lý do vì Chính thần là khu vực có vượng khí của Sơn mạch,
nên nếu bài bố tọa theo khu vực của Chính thần thì mới đúng là “Chính thần
chính vị trang”. Mà 1 khi bài bố như vậy thì hướng nhà (hay mộ) sẽ là khu vực của
Linh thần, nên đương nhiên “thu được thủy từ 8 hướng” (BÁT THỦY NHẬP LINH ĐƯỜNG).
Ý nghĩa của câu này thật ra là dùng hình tượng
của Loan đầu để diễn tả, vì khi long mạch hành tiến mà tới lúc kết huyệt thì ở
phía đối diện với nó, mọi nguồn nước đều tụ hội về đó (tức Nghịch thủy). Mà
phương long mạch tiến tới là Chính thần, còn phương đối nghịch với nó là Linh
thần, cho nên mới nói “Bát thủy nhập Linh đường” là vì vậy. Ở đây không còn nói
“LINH THẦN”, mà lại dùng chữ “LINH ĐƯỜNG”, vì “Đường” có nghĩa là ao, hồ, nên
là nơi Thủy khắp nơi hội tụ về. Chính vì vậy nên khu vực của Linh thần là nơi hội
tụ Thủy khí của toàn vận đó, cho nên nếu dùng nó làm CHÍNH HƯỚNG cho nhà hay mộ
thì sẽ là 1 cách tốt đẹp
(LINH
ĐƯỜNG CHÍNH HƯỚNG TU TIÊU HẢO).
- Thí dụ: Nhà tọa Sửu hướng Mùi, nhập trạch
trong vận 8, có tinh bàn như hình dưới.
Hình
95: Trạch vận nhà tọa Sửu hướng Mùi, vận 8
Nhà này tọa ĐÔNG BẮC (SỬU), trong vận 8 là
tọa nằm trong khu vực của Chính thần, lại có vượng khí của Sơn tinh số 8 cũng nằm
ở phía sau nhà, nên đây chính là cách “CHÍNH THẦN CHÍNH VỊ TRANG” mà Thiên ngọc
kinh nói. Còn hướng nhà nhìn về phía TÂY NAM, trong vận 8 là khu vực của Linh
thần, lại được vượng khí của Hướng tinh tới hướng, nên vừa đắc Thủy của vận (vì
là vị trí Linh thần), vừa đắc Thủy của Phi tinh (tức vượng khí của Hướng tinh đến
phía trước), vì vậy nên mới nói “BÁT THỦY NHẬP LINH ĐƯỜNG” (nghĩa bóng là mọi
nguồn thủy đều tụ tập về phía trước). Đây cũng hính là 1 cách phối hợp giữa Huyền
không phi tinh với Huyền không Đại quái mà nhiều người thường hay nhắc tới,
nhưng chỉ nói 1 cách mù mịt, hoặc không đầu không đuôi mà thôi. Vì Linh – Chính
thần là 1 trong nhiều yếu tố của Huyền không đại quái, và sẽ được khảo sát chi
tiết hơn trong chương trình của những lớp Trung cấp hoặc Cao cấp sau này.
Trở lại với lời bình chú của Tưởng đại Hồng,
“lấy Chính thần đặt trên hướng là Sinh nhập, lấy Linh thần đặt trên thủy là Khắc
nhập” là thật ra ông chỉ cố tình đánh lạc hướng người đọc. Vì “lấy Chính thần đặt
trên hướng” phải hiểu 1 cách “méo mó” là lấy trạch vận sao cho Vượng khí của Hướng
tinh tới hướng (vì vượng khí cũng là Chính thần). Còn được “sinh nhập” chỉ có
nghĩa nếu đã đắc vượng khí là được những điều tốt lành, may mắn tới, chứ không
có nghĩa là được sao hay hành nào khác sinh cho. Còn câu “lấy Linh thần đặt
trên thủy là khắc nhập” thì thật ra, khu vực của Linh thần bao giờ cũng có vận
tinh Ngũ Hoàng (số 5) tới. Thí dụ như vận 1 nếu lấy vận tinh số 1 nhập trung
cung thì số 5 đến phía NAM, mà phía NAM cũng là Linh thần của vận 1. Trong vận
2 nếu lấy 2 nhập trung cung thì số 5 đến ĐÔNG BẮC, mà ĐÔNG BẮC cũng là Linh thần
của vận 2. Nếu cứ làm như vậy thì trong 9 vận, khu vực của Linh thần đều có vận
tinh Ngũ hoàng đến cả. Cho nên, vận tinh Ngũ hoàng là tiêu biểu cho khu vực của
Linh thần. Vì vậy, khi nói “lấy Linh thần đặt trên thủy” chỉ là hàm ý nói khu vực
của Linh thần có thủy, thì vận tinh Ngũ Hoàng sẽ khắc thủy (vì Ngũ Hoàng thuộc
Thổ). Tuy nhiên, ông lại kết luận là “Linh Đường Chính Hướng thì mới kiêm thu
được cái kỳ diệu ấy”, tức là lấy LINH ĐƯỜNG làm CHÍNH HƯỚNG như Thiên ngọc kinh
đã nói. Chính vì vậy nên lời phê của Tưởng đại Hồng hết sức mơ hồ, và dễ làm
cho người đọc hiểu sai ý nghĩa, để hoặc là không tìm ra manh mối, hoặc là đi tới
những sai lầm. Còn cách dùng Linh thần được đưa ra ở trên là do chỉ dựa vào câu
nói của Tưởng Đại Hồng, lại bám theo nó 1 cách cứng nhắc, nên mới phạm phải sai
lầm. Ở đây, câu “lấy Chính thần đặt trên hướng là Sinh nhập” lại được họ hiểu
là “Hướng tinh ở hướng được Sơn tinh tại đó sinh nhập” thì thật là quá gượng
ép; còn câu “lấy Linh thần đặt trên thủy là Khắc nhập” thì họ cho đoạn “lấy
Linh thần đặt trên thủy” là ý nói Hướng tinh được dùng làm Linh thần, như vận 7
thì dùng Hướng tinh 3 làm Linh thần, vận 8 dùng Hướng tinh 2… vì khu vực địa
bàn của những số đó là Linh thần. Còn “khắc nhập” là Hướng tinh đó phải khắc được
Sơn tinh nằm cùng khu vực với nó. Cho nên, cách áp dụng vừa gò bó, miễn cưỡng,
lại hiểu sai 2 câu nói đó, nên làm sao có thể coi là chính pháp xử dụng Linh thần
thủy được?
Tóm lại, cách xử dụng Linh thần tốt nhất là đặt tọa của nhà (hay mộ) về phía của
Chính thần, còn hướng nhà về phía Linh thần, với điều kiện phải được vượng khí
của Sơn tinh tới tọa, vượng khí của Hướng tinh tới hướng. Đó là cách “CHÍNH THẦN
CHÍNH VỊ” nên “BÁT THỦY SẼ NHẬP LINH ĐƯỜNG” mà làm cho tiền của sung túc, có thể
“TÍCH SÚC VẠN DƯ SƯƠNG” được. Nhưng cũng cần để ý là tại khu vực của Linh thần
(tức hướng nhà) PHẢI CÓ CỔNG, CỬA, ĐƯỜNG ĐI HOẶC AO HỒ. Có như vậy thì tài lộc
mới phát. Còn nếu nơi đó chỉ có tường vách bít kín, nhà cao, cây cối lớn, núi đồi,
gò đất… thì đó là phản cục, nên gặp nhiều tai ách, và tài lộc sẽ bị phá bại.
Ngoài ra, nếu không dùng được cách đó cứ
theo những cách thông thường đã được nói ở trên, tức nơi nào có Sinh – vượng
khí của Hướng tinh thì đặt Thủy, nơi nào có suy, tử khí thì để khô ráo, trống
không, yên tĩnh… là được. Tức nếu kết hợp được giữa Phi tinh và Huyền không đại
quái là tốt nhất, còn nếu không thì chỉ theo Phi tinh cũng đủ no ấm, an lành rồi
vậy.
Trích nguồn: Sách "Phong thủy huyền không học"– T/g: Bình Nguyên Quân– Tái bản năm 2018.
Tổng hợp 18 bài cơ bản HKPT tại đây:
Trân trọng!
P/s: Nếu bạn có nhu cầu bố cục phong thủy, thì hãy liên lạc tôi qua số điện thoại/zalo bên dưới.
--------------------------------------------------------------------
P/s: Các bạn khi chia sẽ, nhớ ghi nguồn nhé!
Ths. Kts. Bùi Quốc Hưng – 090.33.99.208
Facebook: Ngôi Nhà An Vui
Quản lý trang:
+ Thư viện XD360 - Tài liệu và Bản vẽ Xây dựng
+ CHIA SẺ KIẾN THỨC PHONG THUỶ
+ Phong Thủy-Dịch học Tp.HCM
--------------------------------------------------------------------