BÀI 13
Muốn biết nhà có được thuần khí
hay không thì trước hết phải xét tới tọa – hướng của nó. Một căn nhà được xem
là Thuần khí khi tuyến vị tọa – hướng của nó hoặc là nằm chính giữa 1 sơn, hoặc
lệch sang bên phải hay bên trái tuyến vị đó (còn gọi là Kiêm hướng), nhưng
không quá 3 độ. Nếu lệch quá 3 độ thì sẽ bắt đầu lấy khí của sơn bị kiêm nhiều
quá, khiến cho khí của tọa – hướng không còn thuần khiết nữa, mà đã bị pha tạp,
nên mức độ tốt đẹp sẽ giảm thiểu, hoặc sẽ gặp hung họa lớn, nếu như chẳng may
nhà lại không đắc được vượng khí tới hướng hay cửa, nhất là chủ về chết người,
tổn đinh hay bị tuyệt tự, tài lộc suy thoái, phá sản...
* 4 sơn dương: CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN.
* 4 sơn âm: TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU.
* 4 sơn dương: GIÁP, CANH, NHÂM,
BÍNH.
* 4 sơn âm: THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI.
* 4 sơn dương: DẦN, THÂN, TỴ, HỢI.
* 4 sơn âm: ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ.
Do đó:
a/ Nếu tọa – hướng nhà thuộc Thiên Nguyên Long:
Thì cổng, cửa và ngõ vào nhà phải nằm trong những khu vực thuộc Thiên Nguyên.
-
Thí dụ: nhà hướng 180 độ (tức tọa TÝ hướng NGỌ).
Vì TÝ – NGỌ đều thuộc Thiên Nguyên Long, nên khi làm cổng, cửa cần phải đưa về
những khu vực thuộc Thiên nguyên Long. Nếu nhà gần ngã ba, ngã tư, hay có những
lối rẽ vào nhà thì những chỗ đó cũng cần nằm tại các khu vực thuộc Thiên nguyên
Long (nếu tính từ tâm nhà).
Hình 2: nhà tọa TÝ hướng NGỌ
Hình 2: nhà tọa TÝ hướng NGỌ, thuộc
Thiên nguyên long, có ngã tư gần nhà thuộc cung KHÔN (tính từ tâm nhà), lối vào
nhà thuộc cung TỐN, cửa trước thuộc cung NGỌ, cửa sau thuộc cung CÀN (hay KIỀN)).
Tức là mọi vị trí cửa, ngõ, lối đi... đều cùng Thiên Nguyên long với tọa – hướng.
Nếu tọa – hướng nhà thuộc Thiên nguyên long, nhưng lại có cổng, cửa, lối vào nhà nằm tại những phương thuộc Nhân nguyên long thì cũng có thể xử dụng được. Đây chính là trường hợp “Phụ mẫu có thể kiêm dùng Thuận tử”. Còn đối với những cổng, cửa, ngõ vào nhà thuộc Địa nguyên long thì không thể dùng được.
-
Thí dụ: cũng với nhà tọa TÝ hướng NGỌ ở trên thì cũng có thể dùng được cổng,
cửa,ngõ vào nhà tại những khu vực thuộc Nhân nguyên long như QUÝ, ĐINH, TÂN, ẤT…
chứ không thể dùng được cổng, cửa, ngõ vào nhà tại những khu vực thuộc Địa nguyên
long như NHÂM, BÍNH, GIÁP, CANH…
Thì cổng, cửa, ngõ vào nhà cũng phải nằm trong những khu vực thuộc Nhân Nguyên, chứ cũng không thể kiêm dùng cổng, cửa, ngõ vào nhà nằm tại những khu vực thuộc Thiên nguyên long. Đây chính là trường hợp “Thuận tử không thể kiêm dùng Phụ mẫu”, chỉ có Phụ mẫu mới kiêm dùng được Thuận tử mà thôi. Lại càng không thể xử dụng, cổng, cửa, ngõ vào nhà tại những khu vực thuộc Địa nguyên long, vì như thế là bị “Xuất quái”.
c/ Nếu tọa – hướng nhà thuộc Địa Nguyên long:
Thì cổng, cửa cũng phải nằm trong khu vực của Địa Nguyên. Có như vậy mới bảo đảm được sự thuần khí. Nếu còn đắc thêm vượng khí sẽ phát lớn, phúc lộc lâu dài, bản chất con người cũng thanh cao, ngay thẳng, trong sạch, tức là chỉ có những nhà như thế mới có thể bảo đảm từ vật chất đến tư cách và thanh danh cho người sống trong đó. Đây chính là phương pháp “ đồng nguyên nhất khí”, tức là tọa – hướng và cổng, cửa, ngõ vào nhà, thủy đến, thủy đi đều cùng 1 Nguyên long để tạo thành 1 khí duy nhất. Có như vậy thì con người mới thanh quý, phúc lộc mới có và trường cửu, lâu dài. Đây chính là ý nghĩa của câu “Thiên cơ an ở trong, gia đình ngày 1 phú quý” (Thiên cơ nhược nhiên an tại nội, gia hoạt đương phú quý) mà “Thiên ngọc Kinh” đã viết. Còn chẳng may tọa – hướng nhà khác Nguyên Long với cổng, cửa hay ngõ vào nhà thì dù tài lộc có khá (trong trường hợp cửa đắc vượng khí), nhưng con người cũng tầm thường, dễ phát sinh những bản tính xấu như tham lam, bủn xỉn, hay bị tai tiếng, thị phi, phạm pháp... Những nhà này vận khí cũng thường ngắn ngủi, một khi vượng khí đã biến thành thoái khí thì tài lộc khó khăn, tai họa liên tiếp kéo tới. Con người vì vậy cũng nghèo hèn, hay bần tiện, hung ác... Đây chính là ý nghĩa của câu “Thiên cơ an ở ngoài, gia đình ngày 1 suy bại” (Thiên cơ nhược nhiên an tại ngoại, gia hoạt tiềm thoái bại) mà “Thiên ngọc Kinh” đã viết.
Một điểm quan trọng khác là tuy tọa – hướng và cổng, cửa của 1 căn nhà phải cùng 1 Nguyên Long với nhau, nhưng cần trái ngược âm – dương mới làm cho vận khí được lâu dài. Đây chính là trường hợp “Âm khẩu phối hợp với Dương hướng, Dương khẩu phối hợp với Âm hướng (Âm dụng dương triều, dương dụng âm ứng). Âm – Dương cùng phối hợp, phúc lộc mãi theo cùng (Âm dương tương kiến, phúc lộc vĩnh trinh. Ở đây, Phúc – Lộc vĩnh trinh: tức phúc – lộc trường cửu, lâu dài)” như “Thanh nang kinh” đã viết.
- Thí dụ 1: nhà hướng 180 độ (tức tọa TÝ hướng NGỌ). Vì tọa – hướng của căn nhà thuộc Thiên nguyên Long, nên cổng, cửa hoặc ngõ vào nhà cũng nên nằm tại những sơn thuộc Thiên nguyên Long như TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU hay CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN. Nhưng vì TÝ – NGỌ thuộc Âm, nên nếu cổng, cửa nằm tại các sơn Dương như CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN thì đó là cách phối hợp Âm hướng với Dương khẩu, phúc lộc sẽ tốt đẹp và lâu dài hơn nếu cổng, cửa nằm tại các sơn Âm như TÝ, NGỌ MÃO, DẬU (vì Âm hướng phối với Âm khẩu thì Âm khí quá thịnh, phúc khí không thể phát mạnh được).
-
Thí dụ 2: nhà hướng 60 độ (tức tọa THÂN hướng DẦN). Vì tọa – hướng thuộc Nhân
nguyên Long, nên cổng, cửa hay ngõ vào nhà cũng nên nằm trong những khu vực thuộc
Nhân nguyên như DẦN, THÂN, TỴ, HỢI hay ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ. Nhưng nếu cổng, cửa
nằn trong những sơn Âm như ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ để tạo được cuộc Dương hướng phối
với Âm khẩu thì sẽ phát phúc lộc lớn. Còn nếu nằm tại những khu vực thuộc Dương
sơn như DẦN, THÂN, TỴ, HỢI thì phúc lộc sẽ ngắn ngủi (vì Dương hướng phối với
Dương khẩu tuy phát phúc nhưng mau tàn).
- Thí dụ 3: nhà hướng 102 độ (tức tọa TÂN hướng ẤT kiêm DẬU – MÃO 3 độ). Nhà này tuy kiêm, nhưng vì chính tọa, chính hướng vẫn là TÂN – ẤT, thuộc Âm hướng trong Nhân nguyên Long, cho nên cổng, cửa hay ngõ vào nhà nên nằm trong những sơn Dương như DẦN, THÂN, TỴ, HỢI của Nhân nguyên, vừa để đồng Nguyên Long, vừa để tạo cuộc Âm hướng phối hợp với Dương khẩu. Cho nên, tinh hoa của vấn đề thuần khí là sự phối hợp giữa tọa – hướng với những khu vực có cổng, cửa vào nhà, sao cho chúng vừa đồng Nguyên long, vừa hài hòa Âm – Dương với nhau. Nếu bất đắc dĩ không thể đạt được cuộc âm – dương tương phối giữa hướng và khẩu (cửa, ngõ) thì ít nhất cũng cần đạt được sự đồng Nguyên giữa khẩu và hướng, cộng với vượng khí chiếu tới cửa cũng có thể hưng thịnh 1 thời.
-
Thí dụ: nhà tọa MÃO hướng DẬU, nhập trạch trong vận 8.
Hình 3: nhà tọa MÃO hướng DẬU
Hình 3: nhà tọa MÃO hướng DẬU,
các cửa trước, sau cũng ở 2 cung MÃO, DẬU Vì tọa – hướng nhà là MÃO – DẬU thuộc
Thiên nguyên Long, 2 cửa trước – sau cũng nằm trong 2 cung DẬU – MÃO, tuy không
được cách Âm – Dương tương phối, nhưng cũng vẫn được đồng Nguyên long giữa hướng
và khẩu. Lại thêm của trước đắc vượng khí (tinh bàn bên dưới), nên công việc
làm ăn khá, tài lộc sung túc.
Nếu nhà này có những cửa tại các
khu vực BÍNH hoặc SỬU (hình 3) thì giữa hướng và cửa sẽ không đồng Nguyên long
với nhau, nên sẽ phát sinh nhiều tai họa. Nhất là nếu cửa lại không đắc được vượng
khí chiếu tới.
Trường hợp nếu cổng, cửa nằm tại những khu vực đồng Nguyên với tọa – hướng, nhưng không đắc vượng khí, cho nên phải mở ở những khu vực thuộc Nguyên Long khác. Những nhà như thế là đã nhận phải tạp khí, nên dù cửa có đắc vượng khí cũng chỉ có thể phát về tài lộc mà thôi. Nhưng khí chất và phong cách của những người sống trong những nhà như thế cũng tầm thường, chứ không được thanh cao như những nhà có tọa – hướng và cổng, cửa đồng Nguyên long.
-
Thí dụ: nhà hướng 165 độ (tức tọa NHÂM hướng BÍNH), nhập trạch trong vận 8.
Tinh bàn của căn nhà như hình dưới.
Hình 5: trạch vận nhà tọa NHÂM hướng BÍNH, vận 8
Nhìn vào tinh bàn, ta thấy khu vực
phía NAM có Hướng tinh Thất Xích, trong vận 8 là suy khí. Vì vậy, nếu nhà này
làm cửa tại phương BÍNH thì sẽ nhận phải suy khí. Nhưng nếu dịch cửa sang
phương NGỌ hoặc ĐINH, thì cửa sẽ nhận được vượng khí.
Sở dĩ như thế là vì khi cửa mở tại
sơn nào thì vẫn dùng Vận tinh tới khu vực đó nhập trung cung, nhưng xoay chuyển
thuận – nghịch tùy theo sơn đó trùng với sơn nào của Vận tinh. Đây chính là bí
quyết để xác định khí đến cửa là vượng khí hay suy, tử khí.
Trở về với thí dụ trên, nhà tọa
NHÂM hướng BÍNH trong vận 8, có vận tinh số 3 tới phía trước. Vì nhà hướng
BÍNH, trùng với sơn GIÁP của số 3, là sơn DƯƠNG, nên lấy 3 nhập trung cung xoay
thuận thì 7 đến hướng. Vì vậy, hướng nhà này (cũng như cửa tại phương BÍNH) có
sao Thất Xích là suy khí chiếu tới (hình dưới).
Hình 7: nhà hướng NHÂM trong vận 8 bị suy
khí tới hướng
Nhưng vì cửa mở tại phương NGỌ, trùng với sơn MÃO của số 3, là sơn ÂM, nên lấy 3 nhập trung cung xoay nghịch thì 8 tới cửa. Cho nên nhà này tuy ở hướng bị suy khí, nhưng cửa vẫn đắc vượng khí, vì vậy về tài lộc cũng vẫn tốt trong vận 8. Nhưng vì cửa nằm tại sơn NGỌ, không đồng Nguyên long với hướng BÍNH, cho nên chỉ tốt về tài lộc mà thôi, chứ người trong nhà không thể phát quý. Nếu có phát quý cũng sẽ bị tai họa, thanh danh nhơ nhuốc. Một khi hết vận, cửa không nhận được vượng khí nữa thì tai họa càng nặng. Vì vậy, phương pháp dùng cửa không đồng Nguyên long với tọa – hướng để đón vượng khí chỉ là cấp thời mà thôi. Một khi qua vận khác thì phải lập tức thay đổi cửa, hoặc tu tạo ngay để tránh tai họa.
Hình 8: nhà hướng NHÂM, trong vận 8, vượng
khí tới cung NGỌ
Tương tự, trong vận 4 Trung nguyên thì có thể kiêm dùng thủy, cổng, cửa, ngõ vào nhà ở các khu vực TỐN, KHÔN, CẤN (vì vận 5 thì 10 năm đầu dùng KHÔN làm Chính thần, 10 năm cuối dùng CẤN), CÀN (tức 4, 5, 6). Còn trong vận 7 thì có thể kiêm dùng thủy, cổng, cửa, ngõ vào nhà ở các khu vực ĐOÀI, CẤN, LY (tức 7, 8, 9).
Đó là những trường hợp của các vận đứng đầu trong 1 Nguyên, còn với những vận giữa, hay cuối của 1 Nguyên thì cũng tương tự như thế. Như trong vận 2 hoặc 3 vẫn có thể xử dụng khí (tức phương có thủy hay cổng, cửa, ngõ vào nhà) tại các khu vực KHẢM, KHÔN, CHẤN… Điều quan trọng của việc dùng phương pháp này là các khu vực xử dụng cần phải đắc Sinh – Vượng khí, hoặc những cặp số tốt như 1 – 4, 1 – 6, chứ nếu gặp suy, tử khí thì cũng không thể xử dụng được. Vấn đề này sẽ được làm sáng tỏ hơn trong phần “Tam cát, Ngũ cát” ở 1 mục sau. Nếu những khu vực có thủy, cổng, cửa, ngõ vào nhà vừa được đồng Nguyên long với tọa – hướng, lại đắc được cuộc “Nhất Nguyên Tam cát” này thì lực phát trong Nguyên – vận đó càng mạnh, mức độ phú – quý cũng vì thế mà được gia tăng hơn rất nhiều.
Hình 9: trạch vận nhà tọa TÝ hướng NGỌ, vận
8
Phần 2: Chính sơn, chính hướng:
Chính vì vấn đề đòi hỏi nhà phải thuần khí, nên không những giữa tọa – hướng với cổng, cửa và ngõ vào nhà phải cùng 1 Nguyên Long, mà tọa – hướng cũng nên nằm tại tuyến vị chính giữa của mỗi sơn. Nếu có kiêm (hay lệch) sang phải hoặc sang trái cũng không được quá 3 độ so với tuyến vị chính giữa. Lý do vì mỗi hướng bao gồm khoảng 15 độ, nên nếu hướng nhà chỉ lệch dưới 3 độ, tức là độ kiêm sang hướng bên cạnh còn quá nhỏ, chỉ bằng 1/5 độ số của chính tọa, chính hướng, vì vậy chưa đủ sức để làm nhiễu loạn khí của tọa và hướng. Những nhà như thế được coi là đắc “chính sơn chính hướng”, và khí của tọa – hướng mới được thuần khiết, chứ không bị tạp loạn.
CHÚ Ý: qua bài này chúng ta đã thấy được, tầm quan trọng của việc đo hướng theo độ, cần rất chính xác và hạn chế sai số, thì việc bố cục sẽ đạt kết quả tốt, bằng không thì tạp khí xuất hiện khó mà tránh khỏi kết quả sai, không đạt nhiệm chứng và thường khó xử lý.
Tổng hợp 18 bài cơ bản HKPT tại đây:
- Bài 01: KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HUYỀN KHÔNG
- Bài 02: NHỮNG NGUYÊN LÝ CĂN BẢN
- Bài 03: NGUYÊN LÝ ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH
- Bài 04: SỰ TƯƠNG QUAN NGŨ HÀNH
- Bài 05: VÒNG LƯỢNG THIÊN XÍCH
- Bài 06: THẾ QUÁI
- Bài 07: SINH – VƯỢNG – SUY – TỬ KHÍ TRONG HUYỀN KHÔNG
- Bài 08: VƯỢNG SƠN – VƯỢNG HƯỚNG
- Bài 09: ĐẶC TÍNH CỦA CỬU TINH TRONG HUYỀN KHÔNG
- Bài 10: TAM NGUYÊN, CỬU VẬN TRONG HUYỀN KHÔNG HỌC
- Bài 11: 24 SƠN (HƯỚNG) & TAM NGUYÊN LONG
- Bài 12: PHƯƠNG PHÁP LẬP TINH BÀN
- Bài 13: CHÍNH SƠN, CHÍNH HƯỚNG
- Bài 14: THU SƠN – XUẤT SÁT
- Bài 15: PHẢN NGÂM – PHỤC NGÂM
- Bài 16: THƯỢNG SƠN – HẠ THỦY
- Bài 17: LINH THẦN & CHÍNH THẦN
- Bài 18: KIÊM HƯỚNG